Địa bàn chiến dịch: khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tỉnh Phú Bồn, Đắc Lắc, Quảng Đức. Bộ tư lệnh chiến dịch: Tư lệnh Hòang Minh Thảo, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp. Mục tiêu then chốt của chiến dịch là thị xã Buôn Ma Thuột và 3 quận lỵ: Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức; Thực hiện chia cắt chiến lược.
Địa bàn chiến dịch: khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tỉnh Phú Bồn, Đắc Lắc, Quảng Đức. Bộ tư lệnh chiến dịch: Tư lệnh Hòang Minh Thảo, Chính ủy Đặng Vũ Hiệp. Mục tiêu then chốt của chiến dịch là thị xã Buôn Ma Thuột và 3 quận lỵ: Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức; Thực hiện chia cắt chiến lược.
Diễn biến chiến dịch:
+ Đợt 1: Từ 4-3 đến 9-3: Ngày 4-3, ta cắt đường số 19 đọan từ An Khê đến Nam Bình Khê và cắt đường số 21, tập kích bằng pháo binh và đặc công vào thị xã Công Tum, Plây Cu, tích cực hoạt động nghi binh để ghìm chặt địch ở Bắc Tây Nguyên. Cùng ngày, ta tiến
+ Đợt 2: Từ ngày 10 đến 18-3: Rạng sáng 10-3, ta nổ súng tiến công bất ngờ vào các căn cứ quân sự của địch ở trong thị xã Buôn Ma Thuột. Sau 4 giờ chiến đấu, ta làm chủ sân bay Hòa Bình và khu kho Mai Hắc Đế. 11 giờ ngày 11-3, ta hòan toàn làm chủ thị xã
+ Đợt 3: Từ 17 đến 24-3-1975: Ta chặn đánh các lực lượng địch ở Plây Cu, Công Tum rút chạy trên đường số 7 từ Cheo Reo đến Củng Sơn. Ngày 14-3,
Tổng thống Thiệu họp với Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Nha Trang quyết định rút quân khỏi Công Tum – Plây Cu theo đường số 7 về giữ vùng đồng bằng ven biển. Ngày 16-3, nhận được thông báo địch đã rút chạy, Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra lệnh nhanh chóng truy kích địch. Chiều ngày 17-3, quân ta đã cắt đường số 7 hình thành thế bao vây quân địch từ phía sau. Cùng ngày pháo binh ta bắn vào thị xã Cheo Reo. 18 giờ ngày 18-3, quân ta chiếm thị xã Cheo Reo. Các ngày 21, 22, 23, quân ta tiếp tục truy kích địch trên đường số 7. Ngày 24-3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch ở đây. Một mũi quân khác cùng với lực lượng địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung (Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang). Phối hợp với hướng chính, từ ngày 17-3 đến 22-3, ta giải phóng Công Tum, Plây Cu, An Khê, Gia Nghĩa, Kiến Đức. Tây Nguyên được hòan toàn giải phóng.
Kết quả: địch bị tiêu diệt 4.500 tên, bị bắt 16.822 tên, ra hàng và được phóng thích tại chỗ 7.190 tên. Ta bắn rơi 44 máy bay, phá hủy 110 chiếc, thu và phá hỏng 17.188 súng pháo các loại, 1.096 xe các loại, 767 máy thông tin, thu toàn bộ kho tàng, thiết bị chỉ huy, cơ sở chữa cháy của ngụy ở Tây Nguyên. Giải phóng 5 tỉnh Tây Nguyên: Công Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bồn, Quảng Đức. Hơn 60 vạn nhân dân các dân tộc giành quyền làm chủ.
Nguồn:Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang 2003, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 532.
Theo lichsuvietnam.vn